Vô Thường

...tìm trong vô thường có đôi dòng kinh...

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009

Lý Lẽ Của Trái Tim

Khi sáng, lúc quét rác, Vô Thường nhặt được chú mèo con trước cổng chùa. Đêm qua mưa lớn lắm, chú mèo vẫn khô ráo, có lẽ ai đó mới bỏ. Chú mèo đen từ đầu đến đuôi, bốn chân bị tật, không đi được. Thương.
Vô Thường đặt cho nó tên Lucky, ai cũng cười. Tên Lucky hồi giờ chỉ giành cho chó. Vô Thường biết. Nhưng cũng chỉ vì mong chú mèo con đáng thương đó có chút may mắn sau này. Tên gọi đâu thể thay đổi được số phận! Thì đó, những người có tên Đỗ Cử Nhân, Đỗ Tiến Sĩ… lại chẳng chịu học hành gì! Số phận hình thành từ thái độ sống của mình. Hình thành từ những suy nghĩ, từ lời nói, việc làm. Muốn thay đổi được số phận, phải thay đổi thái độ sống. Vô Thường biết.

Nhưng trái tim lại có lý lẽ riêng.

Chùa Bé Bé. Thủ Thiêm.30.10.2009


Thứ Năm, 29 tháng 10, 2009

Ngôi Nhà Nhỏ

Mặt biển chao đảo dữ dội, tung bụi mịt mù, như có bàn tay khổng lồ đang cầm trái đất lắc thật mạnh. Mưa như trút. Gió đập tan những hạt mưa thành lớp bụi mờ. Người phụ nữ đứng trên đồi cát sau làng, bất động, nhìn mãi về phía biển. Thuyền của chồng cô vẫn chưa về. Chiếc thuyền câu đó nhỏ lắm, trên nó cũng chỉ có hai người.
- Về thôi con! Phải thương đứa con của con nữa.
Đứa con, cô quên mất, cô đang có mang, chắc con lạnh lắm phải không, mẹ xin lỗi.
Hai người phụ nữ tựa vào nhau, liu xiu trong mưa bão.
Ngoài kia, biển vẫn giận dữ gào thét đến khản cả giọng.

***
Ngày cô lập gia đình, người mẹ vui lắm, nhưng trong lòng lại cồn lên nỗi lo lắng mơ hồ, người con trai đó làm nghề biển, cũng giống chồng bà ngày trước. Người đã bỏ hai mẹ con bà ra đi mãi mãi trong một trận bão biển. Sinh nghề tử nghiệp.
Đã sống trong làng chài này, trong máu người đàn ông nào lại không có vị mặn của biển. Không làm nghề biển, thì cũng chẳng còn việc gì để làm. Cánh đồng sau làng ngày càng cằn cỗi, và sau mỗi mùa bão, cát lại lấn vào một ít, hết mùa bão năm nay, có lẽ cát sẽ tràn vào phủ trắng hết phần còn lại. Chẳng còn trồng trọt gì được nữa.
Bao nhiêu năm nay rồi, cánh đồng sau làng đã bị bỏ hoang, trở thành thế giới riêng của lũ xương rồng. Loài cây như những con người ở đây, sù sì, nhẫn nại, dai dẳng đến không hiểu nổi. Nhưng khi mùa mưa đến, từ tấm thân gai góc đó lại bật ra những bông hoa đẹp ngỡ ngàng. Xưong rồng dai dẳng, sù sì bao nhiêu thì hoa của nó lại mong manh bấy nhiêu. Mong manh đến vô thường.

***
Một ngày sau, hai ngày sau… rồi một tuần sau… biển lặng lắm. Biển yên lặng như đứa bé biết lỗi khi lỡ tay làm vỡ chiếc bình. Có lẽ biển cũng chẳng muốn bão giông làm gì.
Gần một tháng sau.
- Chị ơi! Thuyền của anh về!
Cô nặng nhọc chay vội lên con dốc sau nhà, nơi cô vẫn thường đứng trông chồng. Đúng là thuyền của chồng. Cô tất tả chạy ra bãi. Đám trai làng bơi ra đẩy thuyền lên bãi.
Trên thuyền chẳng có ai! Không biết sao nó lại không bị trận bão khủng khiếp đó đánh chìm.
Đêm đó biển lại động, còn hơn lần trước. Đêm đó cô trở dạ. Người mẹ khoác vội tấm áo mưa, xách chiếc đèn bão chui vào mưa gió, đi rước người đỡ. Cô sinh một bé gái. Đứa bé đó chính là tôi.
Sáng hôm sau, biển lặng như chẳng có gì. Trên bãi, chiếc thuyền không còn nữa. Đêm qua, sóng tràn lên mang đi mất. Và từ đó, không ai còn thấy nó nữa.
Năm tôi được hai tuổi, mẹ và ngoại quyết định bỏ làng chài ra đi. Chúng tôi quay lưng về phía biển, đi mãi đi mãi, đến khi không còn nghe tiếng sóng biển, không còn nghe ai nói đến biển nữa.

Mẹ chọn mảnh đất gần trường học có tiếng trẻ đọc bài ê a, gần ngôi chùa nhỏ có vị Sư trụ trì già khắc khổ nhưng đôi mắt thật sáng, cất một ngôi nhà nhỏ, phía sau nhà là cánh đồng dã quỳ đầy nắng.

Vô Thường
Chùa Bé Bé. Thủ Thiêm. 30.10.2009


Thứ Tư, 28 tháng 10, 2009

AI CŨNG CÓ GIA ĐÌNH

Năm được mười hai tuổi, mình bắt đầu ăn chay trường. Mọi chuyện bắt từ câu chuyện mẹ kể:

***
Ngày xửa, ngày xưa…
Có người tiều phu hiền lắm. Ngày nọ ông nhặt được vien ngọc rắn. Viên ngọc giúp ông nghe được tiếng nói tất cả loài vật. Ông có người bạn thân, hồi nhỏ sống cùng làng, vì khó khăn phải tha phương cầu thực. Ông muốn cho người bạn biết bí mật này.
Bao năm không ngặp, cuộc sống của người bạn vẫn còn khó khăn. Người bạn muốn có bữa cơm tươm tất đãi ông. Ông bàn với vợ:
- Nhà mình chẳng có gì, thôi ngày mai làm con gà mẹ đãi khách.
Đêm đó hai người trò chuyện đến thật khuya mới chịu đi ngủ. Lạ chỗ, người tiều phu trằn trọc suốt đêm. Có tiếng thì thầm ngoài hiên. Ông lắng tai nghe, thì ra tiếng lũ gà. Giọng gà mẹ thật chậm thật buồn:
- Ngày mai ông bà chủ phải giết mẹ lấy thịt đãi khách. Không còn mẹ nữa các con phải sống hòa thuận với nhau.
Lũ gà con líp chíp vâng lời. Gà mẹ nói với đứa con lớn:
- Con giữ em cẩn thận, không để mấy đứa hàng xóm ăn hiếp em. Hôm qua, mẹ thấy diều hâu về đứng trên bụi tre cuối làng. Con nhớ thường xuyên nhìn ra phía đó. Con còn thấp, phải leo lên đống đất mới thấy. Nếu có diều hâu, phải mau dẫn em trốn vào hốc cây. Em còn nhỏ, không được dẫn em đi kiếm ăn ra khỏi vườn nhà.
Người tiều phu nghe tất cả, ông không sao ngủ được. Ngoài hiên, mẹ con lũ gà cũng không ngủ.

***
Nghe đến đây, hai chị em mình khóc thật nhiều. Mẹ cũng khóc. Từ hôm đó, hai chị em không sao ăn thịt được nữa. Tàn nhẫn quá. Hai chị em ăn chay với ba. Mẹ cũng tham gia. Cả nhà cùng ăn chay. (Sau này mình mới biết, mẹ muốn ăn chay từ lâu lắm rồi, nhưng thương hai chị em mình còn nhỏ, nên mới chịu trận đến tận lúc đó).
Ba mẹ dẫn hai chị em mình lên bàn thờ Phật, đốt cho moi đứa một nén hương:
- Hai chị em thắp hương cho Phật, rồi nói cho Phật biết tại sao lại ăn chay.
Chị nói gì đó nhiều lắm! Mình chỉ nói được mấy câu:
- Con không ăn thịt gà, thịt vịt… nữa vì tụi nó cũng có gia đình.

Ba cười, mẹ cười. Ngước lên, mình thấy Phật cũng cười.

Chùa Bé Bé. Thủ Thiêm.28.10.2009


Thứ Ba, 27 tháng 10, 2009

TIN

Khi cái nóng đuổi dần những đám mây đen đi khỏi đỉnh núi Tà-cú, khi những đám rau đắng đất bắt đầu mọc lấm tấm trên triền đê sau làng, lũ chim sẻ kéo nhau trở lại chùa sau mấy tháng đi trốn mưa, chúng tất bật xuống vườn chùa nhặt cỏ khô về làm tổ. Từ lâu lắm rồi, chùa là lãnh địa của chúng. Ở đó chúng an toàn thực sự. Người lớn trong làng không cho tụi nhỏ vào chùa bắt chim! Thậm chí đôi lúc còn nhờ tụi nó mang những con chim non lỡ rơi khỏi tổ đem trả lại cho cha mẹ chúng. Thấy cảnh này, lũõ sẻ thích lắm, kêu “khẹc… khẹc…”! Chúng mặc sức sinh sản, không phải lo lắng gì.
Nhưng khi mây đen bắt đầu xuất hiện ngày một nhiều trên đỉnh núi Tà-cú, báo cho mọi người biết nay mai sẽ có những đám mây mang mưa về. Lũ sẻ đứng trên mái chùa, nhìn về phía núi, kêu “khẹc… khẹc…” rồi kéo nhau đi trốn mưa. Chẳng ai biết chúng đi đâu.
Chùa không còn một bóng sẻ. Không còn những tiếng “khẹc… khẹc…” vô tư. Thấy cũng buồn.

***
- Ai đang công phu bên chùa vậy Má?
- Có một vị thầy từ Sài gòn mới ra, chùa mình yên tĩnh, thầy ở để viết một quyển sách, hơn tuần rồi.
- Lâu rồi chùa mình không có ai công phu khuya.
- Ừ, từ ngày Thầy mất, chùa không còn ai, dân làng mình chỉ công phu chiều, tụng kinh buổi tối, khuya chỉ đóng chuông, không ai đủ kiên nhẫn học thuộc chú Lăng Nghiêm! Mới đó đã gần mười bảy năm. Ba tháng năm ngày nữa là đủ mười bảy năm. Ngày Thầy mất, con còn nhỏ, chưa biết buồn. Người lớn ai cũng ngậm ngùi. Con thấy đông, chắc nghĩ là vui, chạy lung tung. Ba phải la một trận mới chịu ngồi sụt sịt buồn như mọi người!
Từ ngày Thầy mất, chùa làng tôi không còn vị thầy nào nữa. Dân làng chia nhau coi chùa. Chùa vẫn tươm tất lắm. Đêm nào cũng có người về tụng kinh. Căn phòng của Thầy vẫn sạch, trên bàn lúc nào cũng có quyển kinh chữ Hán nằm ngay ngắn, thêm một lư trầm. Ba kể, ngày trước Thầy thường đốt lư trầm này lên rồi ngồi đọc kinh. Người ở xa tới, thấy cảnh chùa, ai cũng nghĩ Thầy chỉ mới ra ngoài, tí nữa sẽ trở về.
Hôm nay đầu tháng, tối tôi lên chùa sám hối, lâu lắm rồi tôi mới lên chùa. Tôi đang theo học đại học tại thành phố. Người đi chùa đông lắm. Đứng tràn ra cả sân. Từ ngày thầy về, người đi chùa nhiều hơn, cả làng bên cũng kéo sang. Tháng sau dân làng sẽ làm lại chánh điện. Không sang trọng lắm đâu, đơn giản thôi nhưng sẽ đủ rộng cho mọi người.
Từ ngày thầy về, dân làng tôi vui lắm. Gần sáng, nghe tiếng công phu, người già thức dậy, đun nước pha trà, rủ hàng xóm sang uống. Tiếng công phu bên chùa vọng sang đều đều, mọi người chẳng nói gì, lặng nhìn nhau, ứa nước mắt. Bên chùa, lũ sẻ cũng dậy từ lúc thầy công phu. Còn tối, chẳng biết đi đâu, chúng ngồi thu lu trong tổ kêu “khẹc… khẹc…”.
Từ ngày thầy về, lũ sẻ vui lắm. Ngày nào thầy cũng rải cơm, gạo lên tấm ván cũ đặt sau chùa cho chúng. Lúc đầu thấy lạ, chúng còn sợ, sau quen dần, thấy thầy chúng la cuống lên. Ý muốn nói: “Thầy biết không, tui con yêu thầy nhất trần đời!”

***
- Thầy đi rồi hả Má?
- Ừ, đi tuần trước.
- Thầy có trở lại không?
- Làng mình cũng tính thỉnh thầy trở lại. Nhưng công việc của thầy cần nhiều tài liệu, làng mình đâu có gì. Thấy ở lại chỉ làm khó thầy thêm, nên lại thôi.
Những đám mây đen đã bắt đầu kéo về ngày một nhiều trên đỉnh núi Tà-cú, đuổi cái nóng đi dần. Lũ sẻ đứng trên mái chùa, nhìn về phía núi, kêu “khẹc… khẹc…” rồi rủ xuống vườn chùa nhặt những cọng cỏ khô về lót thêm chiếc tổ cho thật dày. Năm nay chúng sẽ ở lại chùa, không đi trốn mưa nữa. Sáng thức dậy, bay ra tấm ván cũ sau chùa, chẳng thấy gì, chúng rủ nhau vào núi kiếm ăn. Chiều về, trò chuyện rôm rả một hồi rồi kéo nhau đi ngủ. Mai còn phải dậy sớm! Chúng dậy đúng giờ ngày trước thầy dậy công phu. Chùa yên lặng quá. Chúng tròn mắt nhìn nhau, kêu “khẹc… khẹc…”.
Lũ sẻ tin Thầy sẽ trở về.


Vô Thường.
Chủa Bé Bé. Thủ Thiêm. 27.10.2009

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2009

Bằng Lăng Tím

Ngày xưa, Chú muốn trở thành thầy giáo, để dạy những đứa bé khét nắng trong làng biết hy vọng, biết ước mơ. Những ước mơ vượt ra khỏi lũy tre làng.
   Nhưng rồi chiến tranh, Chú cất lại dự định của mình. Ra trận.
   Ngày về.
   Chú để một chân và ba ngón tay lại chiến trường. 
   Nhà chỉ hai mẹ con, trống trải quá, người mẹ muốn nhà có tiếng trẻ thơ, bà tính khuyên chú lập gia đình.
   Nhưng, có lẽ sợ chú biết những suy nghĩ của mình, bà nói nhiều hơn, cười nhiều hơn. Chú cũng nói nhiều hơn, cười nhiều hơn. Hai người nói cười nhiều lắm, nhưng không dám nhìn vào mắt nhau. Có lẽ tại đôi mắt không biết nói dối.
   Một ngày nọ, đi làm sớm, chú nhặt được một bé gái ai bỏ trước cổng chùa cuối làng. Chú ẵm vội về nhà, hai mẹ con mừng đến ứa lệ. Chú đặt cho đứa bé tên Gia Bảo, báu vật của gia đình. Chiều, người mẹ ra ngôi chùa nhỏ cuối làng thắp một nén hương, cảm ơn Trời Phật đã cho bà đứa bé. 
   Ngày Gia Bảo biết nói “ba, ba, bà, bà…”, cả nhà vui khôn tả.
   Rồi Gia Bảo đến trường.
   Đêm về lại có tiếng học bài ê a. Chú dạy Gia Bảo học. “Lớn lên con làm cô giáo nha!”. “Dạ!”. “Con học luôn phần của ba nữa đó nha!” “Dạ!” 
   Sinh nhật lần thứ mười của Gia Bảo, chú tặng Gia Bảo một…cây bằng lăng. Gia Bảo thích hoa bằng lăng lắm, cô bé thường nhờ chú hái những chùm bằng lăng tím ngắt trong vườn nhà. Chú muốn Gia Bảo cũng có một cây bằng lăng cho riêng mình. 


Ngày xưa, có một người rất yêu bằng lăng tím. Chú lên rừng, tìm được một cây, mang về nhưng chưa kịp tặng, phải lên đường ra trận, chú đem trồng vội trong vườn. “Hết chiến tranh hãy tính!”. Cây bằng lăng đó đến nay vẫn còn, và cứ ngơ ngác tím.

Vô Thường
Thủ Thiêm.27.10.2009